Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 26
Câu ghi nhớ: Bây giờ Đức Giê-hô-va đã để cho chúng ta được ở rộng rãi, và ta sẽ đặng thịnh vượng trong xứ. (Sáng Thế Ký 26: 22b)
Mục đích: Giúp chúng ta tin cậy Đức Giê-hô-va và làm điều lành, ở trong xứ, và nuôi mình bằng sự thành tín của Ngài. (Thi Thiên 37: 3)
I. Y-SÁC GẶP KHÓ KHĂN:
1. Đối diện với cơn đói kém: 1 Trừ cơn đói kém thứ nhất trong đời Áp-ra-ham, bấy giờ tại xứ lại có một lần nữa. Y-sác bèn đi đến A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, tại Ghê-ra. (Sáng Thế Ký12:10)
2. Chúa hiện đến: Sáng Thế Ký 26: 2 Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Chớ xuống xứ Ê-díp-tô; hãy ở lại xứ mà Ta sẽ chỉ cho. 3 Hãy ngụ trong xứ nầy, Ta sẽ ở cùng ngươi và ban phước cho ngươi; vì Ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi các xứ nầy và Ta sẽ làm thành lời Ta đã thề cùng Áp-ra-ham, cha ngươi. 4 Ta sẽ thêm dòng dõi ngươi nhiều như sao trên trời, sẽ cho họ các xứ nầy; hết thảy dân thế gian đều sẽ nhờ dòng dõi ngươi mà được phước; 5 vì Áp-ra-ham đã vâng lời Ta và đã giữ điều Ta phán dạy, lịnh, luật và lệ của Ta.
* Lời Chúa hứa cho cha Y-sác: Sáng Thế Ký 12:2 Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; Ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. 3 Ta sẽ ban phước cho người nào chúc-phước ngươi, rủa-sả kẻ nào rủa-sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước. 4 Rồi Áp-ram đi, theo như lời Đức Giê-hô-va đã phán dạy.
a. Chớ xuống Ê-díp-tô (câu 2a): Chúa cảnh báo Y-sác
Sáng Thế Ký 12: 10 Bấy giờ, trong xứ bị cơn đói kém; sự đói kém ấy lớn, nên Áp-ram xuống xứ Ê-díp-tô mà kiều ngụ.
b. Hãy ở lại xứ mà ta chỉ cho (câu 2b): Theo sự hướng dẫn của Ngài.
Công Vụ 7:3 …mà phán rằng: Hãy ra khỏi quê hương và bà con ngươi, mà đi đến xứ Ta sẽ chỉ cho.
Thi-thiên 32:8 Ta sẽ dạy dỗ ngươi, chỉ cho ngươi con đường phải đi. Mắt Ta sẽ chăm chú ngươi mà khuyên dạy ngươi.
Ê-xơ-ra xin Chúa chỉ cho: Ê-xơ-ra 8:21 Tại đó, gần bên sông A-ha-va, ta truyền kiêng cữ ăn, để chúng hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời chúng ta, và cầu xin Ngài chỉ cho biết đường chánh đáng chúng ta, con cái chúng ta, và tài sản mình phải đi.
c. Hãy ngụ trong xứ nầy (câu 3a): Chỗ Chúa đã hứa ban cho.
Thi Thiên 37: 3 Hãy tin cậy Đức Giê-hô-va, và làm điều lành. Khá ở trong xứ, và nuôi mình bằng sự thành tín của Ngài.
Phục Truyền 11:12 Ấy là một xứ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi săn sóc, mắt Ngài hằng đoái xem nó từ đầu năm đến cuối.
d. Ta sẽ ở cùng ngươi (câu 3b): Em-ma-nu-ên.
Giô-suê 1:5 Trót đời ngươi sống, thì chẳng sẽ ai được chống cự trước mặt ngươi. Ta sẽ ở cùng ngươi như Ta đã ở cùng Môi-se; Ta sẽ không lìa ngươi, không bỏ ngươi đâu.
Ma-thi-ơ 28:19 Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp-tem cho họ, 20 và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.
e. Ban phước cho ngươi (câu 3c): Ý muốn của Chúa.
Sáng Thế ký 1: 22 Đức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: Hãy sanh sản thêm nhiều, làm cho đầy dẫy dưới biển; còn các loài chim hãy sanh sản trên đất cho nhiều.
f. Ta sẽ cho ngươi xứ này (3d).
g. Ta sẽ làm thành lời Ta đã thề cùng Áp-ra-ham, Cha ngươi (câu 3e).
1 Các Vua 8:24 Đối cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, Chúa có giữ lời Ngài đã hứa với người. Thật, hễ điều chi miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm hoàn thành, y như chúng tôi thấy ngày nay.
h. Ta sẽ thêm dòng dõi ngươi như sao trên trời (câu 4a).
Hê-bơ-rơ 6:14 Chắc Ta sẽ ban phước cho ngươi nhiều, và khiến hậu tự ngươi sanh sản đông thêm.
i. Sẽ cho họ các xứ nầy (câu 4b).
2 Sử Ký 20:7 Hỡi Đức Chúa Trời chúng tôi! Ngài há chẳng phải đã đuổi dân ở xứ này khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, mà ban xứ ấy cho dòng dõi Áp-ra-ham, là bạn hữu Chúa, làm sản nghiệp đời đời sao? (Lời cầu nguyện của Giô-sa-phát).
j. Hết thảy dân thế gian đều sẽ nhờ dòng dõi ngươi mà được phước (câu 4c).
Ga-la-ti 3:14 hầu cho phước lành ban cho Áp-ra-ham nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà được rải khắp trên dân ngoại, lại hầu cho chúng ta cậy đức tin mà nhận lãnh Đức Thánh Linh đã hứa cho.
k. Vì Áp-ra-ham đã vâng lời ta và đã giữ điều ta phán dạy, lịnh, luật và lệ của ta (câu 5).
Hê-bơ-rơ 11: 8 Bởi đức tin, Áp-ra-ham vâng lời Chúa gọi, đi đến xứ mình sẽ nhận làm cơ nghiệp: người đi mà không biết mình đi đâu.
3. Y-sác vâng lời: Sáng Thế Ký 26: 6 Vậy, Y-sác ở tại Ghê-ra.
1 Samuel 15:22 Sa-mu-ên nói: Đức Giê-hô-va há đẹp lòng của lễ thiêu và của lễ thù ân bằng sự vâng theo lời phán của Ngài ư? Vả, sự vâng lời tốt hơn của tế lễ; sự nghe theo tốt hơn mỡ chiên đực.
4. Đối diện sự sợ hãi: Sáng Thế Ký 26: 7 Bởi nàng Rê-be-ca sắc-sảo dung nhan, nên khi dân xứ đó hỏi thăm vợ người, thì người đáp rằng: “Ấy là em gái tôi,” e khi nói: “Ấy là vợ tôi,” thì họ sẽ giết mình chăng (thừa kế từ cha Áp-ra-ham).
*Áp-ra-ham đối diện với Pha-ra-ôn: Sáng Thế Ký 12: 11 Khi hầu vào đất Ê-díp-tô, Áp-ram bèn nói cùng Sa-rai, vợ mình, rằng: Nầy, ta biết ngươi là một người đàn bà đẹp. 12 Gặp khi nào dân Ê-díp-tô thấy ngươi, họ sẽ nói rằng: Ấy là vợ hắn đó; họ sẽ giết ta, nhưng để cho ngươi sống. 13 Ta xin hãy xưng ngươi là em gái ta, hầu cho sẽ vì ngươi mà ta được trọng đãi và giữ toàn mạng ta. 14 Áp-ram vừa đến xứ Ê-díp-tô, dân Ê-díp-tô nhìn thấy người đàn bà đó đẹp lắm. 15 Các triều thần của Pha-ra-ôn cũng thấy người và trầm trồ trước mặt vua; đoạn người đàn bà bị dẫn vào cung Pha-ra-ôn.
Sáng Thế Ký 12: 19 Sao đã nói rằng: người đó là em gái tôi? Nên nỗi ta đã lấy nàng làm vợ. Bây giờ, vợ ngươi đây; hãy nhận lấy và đi đi. 20 Đoạn, Pha-ra-ôn hạ lịnh cho quan quân đưa vợ chồng Áp-ram cùng hết thảy tài vật của người đi.
5. Sự thật bị phơi bày: Sáng Thế Ký 26: 8 Vả, người ngụ tại xứ đó cũng đã lâu; một ngày kia A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, ngó ngang qua cửa sổ, thấy Y-sác đang giỡn chơi cùng Rê-be-ca, vợ người, 9 bèn đòi Y-sác mà rằng: Quả thật là vợ ngươi đó; sao có nói: Ấy là em gái tôi? Y-sác đáp rằng: Vì tôi có thầm nói: Chớ khá vì nàng mà tôi phải bỏ mình.
a. Vua Phi-li-tin nhìn thấy (câu 8).
Lu-ca 12:2 Chẳng có sự gì giấu mà không phải lộ ra, chẳng có sự gì kín mà không được biết.
b. Vua Phi-li-tin đối diện với Y-sác (câu 9a): Bị người ngoại đoán xét.
c. Y-sác khai thật về sự sợ hãi của mình (câu 9b): Điểm yếu của Áp-ra-ham và Y-sác.
6. A-bi-mê-léc nhận thức về tội lỗi: Sáng Thế Ký 26: 10 A-bi-mê-léc hỏi: Ngươi làm chi cho chúng ta vậy? Ngộ có một người dân đến nằm cùng vợ ngươi, ngươi làm cho chúng ta phải phạm tội!
***Áp-ra-ham và A-bi-mê-léc (Sáng Thế Ký 20: 9 Rồi, A-bi-mê-léc đòi Áp-ra-ham mà nói rằng: Ngươi đã làm gì cho ta vậy? Ta có làm điều chi mất lòng chăng mà ngươi làm cho ta và cả nước phải bị một việc phạm tội lớn dường nầy? Đối cùng ta, ngươi đã làm những việc không nên làm đó. 10 Vua A-bi-mê-léc lại nói cùng Áp-ra-ham rằng: Ngươi có ý gì mà làm như vậy? 11 Áp-ra-ham đáp: Tôi tự nghĩ rằng: Trong xứ nầy thật không có ai kính sợ Đức Chúa Trời, thì họ sẽ vì cớ vợ tôi mà giết tôi chăng. 12 Nhưng nó cũng thật là em gái tôi, em một cha khác mẹ; và tôi cưới nó làm vợ. 13 Khi Đức Chúa Trời làm cho tôi lưu lạc xa nhà cha, thì tôi có nói với nàng rằng: Nầy là ơn của ngươi sẽ làm cho ta: Hễ chỗ nào chúng ta sẽ đi đến, hãy nói về ta: Ấy là anh tôi.)
7. A-bi-mê-léc bảo vệ gia đình của Y-sác: Sáng Thế Ký 26: 11 A-bi-mê-léc bèn truyền lịnh cho cả dân chúng rằng: Kẻ nào động đến người nầy, hay là vợ người nầy, thì sẽ bị xử tử.
***A-bi-mê-léc đối xử với Áp-ra-ham: Sáng Thế Ký 20: 14 Đoạn, vua A-bi-mê-léc đem chiên và bò, tôi trai cùng tớ gái cho Áp-ra-ham, và trả Sa-ra vợ người lại, mà phán rằng: 15 Nầy, xứ ta sẵn dành cho ngươi; ngươi thích đâu thì ở đó. 16 Rồi vua phán cùng Sa-ra rằng: Đây, ta ban cho anh ngươi một ngàn miếng bạc; số tiền đó dùng cho ngươi như một bức màn che trước mắt về mọi việc đã xảy ra cùng ngươi; và mọi người đều sẽ cho ngươi là công bình. 17 Áp-ra-ham cầu xin Đức Chúa Trời, thì Ngài chữa bịnh cho vua A-bi-mê-léc, vợ cùng các con đòi người; vậy, họ đều có con. 18 Vả, lúc trước, vì vụ Sa-ra, vợ Áp-ra-ham, nên Đức Giê-hô-va làm cho cả nhà vua A-bi-mê-léc đều son sẻ.
II. GIẢI QUYẾT SỰ ĐÓI KÉM
1. Nhận biết thời điểm để hành động: Sáng Thế Ký 26: 12 Y-sác gieo hột giống trong xứ đó; năm ấy gặt được bội trăm phần; vì Đức Giê-hô-va đã ban phước cho.
a. Gieo hạt giống trong xứ đó (câu 12a): Hành động.
Truyền Đạo 11: 4 Kẻ cứ lo đoán gió sẽ khó đem giống ra gieo;kẻ cứ trông chừng mây sẽ chẳng mấy khi đi gặt. (BD2011)
Truyền Đạo 11: 6 Vừa sáng sớm, khá gieo giống ngươi, và buổi chiều, chớ nghỉ tay ngươi; vì ngươi chẳng biết giống nào sẽ mọc tốt, hoặc giống nầy, hoặc giống kia, hoặc là cả hai đều sẽ ra tốt.
b. Năm ấy được bội phần trăm (câu 12b): Kết quả vượt quá sự suy tưởng.
Phi-líp 4:19 Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Jêsus Christ.
Thi Thiên 126: 5 Kẻ nào gieo giống mà giọt lệ sẽ gặt hái cách vui mừng. 6 Người nào vừa đi vừa khóc đem giống ra rải, ắt sẽ trở về cách vui mừng, mang bó lúa mình.
c. Vì Đức Giê-hô-va ban phước (câu 12c): Chúa hành động qua Y-sác.
Ê-sai 30: 23 Chúa sẽ khiến mưa xuống trên giống các ngươi gieo ở đất; bánh lương thực từ đất sanh sản sẽ màu mỡ và dư dật; trong ngày đó, súc vật các ngươi sẽ ăn cỏ nơi đồng rộng.
1 Cô-rinh-tô 3:7 Vậy, người trồng kẻ tưới, đều không ra gì, song Đức Chúa Trời là Đấng làm cho lớn lên.
2. Phát triển vượt trội: Sáng Thế Ký 26: 13 Người nên thạnh vượng, của cải càng ngày càng thêm cho đến đỗi người trở nên rất lớn. 14 Người có nhiều bầy chiên, bầy bò và tôi tớ rất đông; bởi cớ ấy, dân Phi-li-tin đem lòng ganh ghẻ (ganh ghét).
a. Người nên thịnh vượng, của cải càng ngày càng thêm (câu 13a).
Sáng Thế Ký 12:2b Ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước.
b. Người trở nên rất lớn (câu 13b).
Sáng Thế Ký 12: 2a Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn.
c. Chiên, bò, tôi tớ rất đông (câu 14a).
d. Dân Phi-li-tin ganh ghét (câu 14b).
Ma-thi-ơ 27:18 Vì quan ấy biết bởi lòng ghen ghét nên chúng đã nộp Ngài.
Châm-ngôn 27:4 Sự căm gan vốn hung dữ, và cơn giận như nước tràn ra; Nhưng ai đứng nổi trước sự ghen ghét?
III. KẺ GANH GHÉT NGĂN TRỞ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA Y-SÁC:
1. Lấp giếng: Sáng Thế Ký 26:15 Mấy cái giếng lúc trước đầy tớ của Áp-ra-ham, cha người, đã đào, bây giờ đều bị dân Phi-li-tin lấp đất lại hết. (*Dân sự: Những người chung quanh lấp).
2. Đuổi ra khỏi: Sáng Thế Ký 26: 16 A-bi-mê-léc nói cùng Y-sác rằng: Hãy ra khỏi nơi ta, vì ngươi thạnh vượng hơn chúng ta bội phần. (*Vua: Lãnh đạo: Dùng uy quyền xua đuổi).
1 Samuên 18:12 Sau-lơ sợ Đa-vít, vì Đức Giê-hô-va ở cùng Đa-vít, và đã lìa khỏi mình.
Ma-thi-ơ 8:34 Cả thành liền ra đón Đức Chúa Jêsus; khi vừa thấy Ngài, thì xin Ngài đi ra khỏi xứ mình.
Phao-Lô: Công Vụ 13:50 Nhưng các người Giu-đa xui giục những đàn bà sang trọng sốt sắng và dân đàn anh trong thành; gây sự bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba, mà đuổi ra khỏi phần đất mình.
IV. CÁCH CHỐNG LẠI SỰ NGĂN TRỞ CỦA GANH GHÉT:
1. Bỏ chốn nầy đi đến Ghê ra: Sáng Thế Ký 26: 17 Vậy, Y-sác bỏ chốn nầy đi đến đóng trại tại trũng Ghê-ra và ở đó.
Ma-thi-ơ 10:23 Khi nào người ta bắt bớ các ngươi trong thành nầy, thì hãy trốn qua thành kia.
2. Đào lại các giếng của Cha đã bị Phi-li-tin lấp: Sáng Thế Ký 26: 18 Y-sác bèn đào lại mấy cái giếng người ta đã đào trong đời Áp-ra-ham, cha mình, mà bị dân Phi-li-tin lấp đất lại khi Áp-ra-ham qua đời, và đặt tên mấy giếng đó như tên của cha mình đã đặt (phục hồi những gì Cha đã có).
3. Đào thêm giếng: Sáng Thế Ký 26: 19 Các đầy tớ của Y-sác còn đào thêm giếng nơi trũng, gặp được một giếng nước mạch.
sác: Sáng Thế Ký 26: 20 Nhưng bọn chăn chiên Ghê-ra tranh giành cùng bọn chăn chiên của Y-sác, mà rằng: Nước đó của chúng ta; nên người đặt tên giếng nầy là Ê-sét. Vì bọn chăn chiên đó có tranh giành cùng mình. (*Bọn chăn chiên: Người cùng nghề giành).
5. Kẻ thù đeo đuổi: Sáng Thế Ký 26: 21 Kế ấy, các đầy tớ đào một giếng khác, thì bị tranh giành nhau nữa; người đặt tên giếng nầy là Sít-na (Thi-thiên 143).
6. Kẻ thù bỏ cuộc: Sáng Thế Ký 26: 22 Đoạn, người bỏ chỗ đó đi đào một giếng khác; về giếng nầy, họ không tranh giành nhau, nên người đặt tên là Rê-hô-bốt, mà rằng: Bây giờ Đức Giê-hô-va đã để cho chúng ta được ở rộng rãi, và ta sẽ đặng thịnh vượng trong xứ. 23 Y-sác ở đó đi, dời lên Bê-e-Sê-ba.
a. Bỏ chỗ đó đi đào giếng khác (câu 22a): Y-sác Không mệt mỏi, nản lòng, tiếp tục mục đích.
b. Không còn tranh giành nữa (câu 22b): Kẻ tranh giành bỏ cuộc.
c. Đức Chúa Trời đã để chúng ta được “Rộng Rãi & Thịnh Vượng” trong xứ (câu 22c).
2 Cô-rinh-tô 3:5 không phải tự mình chúng tôi có tài năng mà nghĩ việc gì như bởi chính mình chúng tôi, nhưng tài năng của chúng tôi đến từ Đức Chúa Trời.
d. Dời lên Bê-e-Sê-ba
Thi Thiên 31:8 Chúa không nộp tôi vào tay kẻ thù nghịch, song đặt chân tôi nơi rộng rãi.
V. CHÚA HIỆN ĐẾN
Sáng Thế Ký 26: 24 Đêm đó Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, cha ngươi; chớ sợ chi, Ta ở cùng ngươi, sẽ ban phước cho và thêm dòng dõi ngươi, vì cớ Áp-ra-ham là tôi tớ ta.
1. Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham (câu 24a): Nhắc cho Y-sác biết Ngài là ai.
Phục Truyền 7:9 Vậy nên, phải nhận biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, ấy là Đức Chúa Trời, tức Đức Chúa Trời thành tín, giữ sự giao ước và nhân từ đến ngàn đời cho những người yêu mến Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài.
2. Chớ sợ chi (câu 24b): Đấng ban bình an
3. Ta ở cùng ngươi (câu 24c): Không ai chống cự nổi ngươi.
4. Sẽ ban phước cho và thêm dòng dõi ngươi (câu 24d): Đấng làm cho thịnh vượng, tăng thêm.
5. Vì cớ Áp-ra-ham tôi tớ ta (câu 24e): Đấng giữ giao ước đã lập.
VI. Y-SÁC TÌM KIẾM CHÚA: Sáng Thế Ký 26: 25 Y-sác lập một bàn thờ, cầu khẩn danh Đức Giê-hô-va và đóng trại tại đó. Đoạn, các đầy tớ người đào một cái giếng tại nơi ấy.
a. Y-sác lập bàn thờ (câu 25a): Ý thức về Chúa một cách cá nhân.
b. Cầu khẩn Danh Đức Giê-hô-va (câu 25b): Thông công và nhờ cậy nơi Ngài.
c. Đóng trại tại đó (câu 25c): Ở trong sự hiện diện của Ngài.
d. Đào giếng tại đó (câu 25d): Biết nguồn nước ở chỗ Ngài hiện diện.
Xuất 20: 24 Ngươi hãy lập cho ta một bàn thờ bằng đất, trên đó phải dâng của lễ thiêu, cùng của lễ thù ân của ngươi, hoặc chiên hay bò. Phàm nơi nào có ghi nhớ danh ta, ta sẽ đến và ban phước cho ngươi tại đó.
VII. KẾT CUỘC: Kẻ ganh ghét nhận biết Chúa đang ở cùng và ban phước cho Y-sác:
1. Đi đến viếng Y-sác: Sáng Thế Ký 26: 26 Vua A-bi-mê-léc ở Ghê-ra đi đến viếng Y-sác, có A-hu-sát, bạn mình, và Phi-côn, quan tổng binh mình, đi theo. (Hạ mình).
Giê -rê-mi 15:11 Nhưng Đức Giê-hô-va phán: Thật ta sẽ bổ sức cho ngươi được phước. Trong khi gặp tai vạ hoạn nạn, thật ta sẽ khiến kẻ thù nghịch đến cầu xin ngươi.
2. Thái độ của Y-sác với kẻ ganh ghét mình: Sáng Thế Ký 26: 27 Y-sác bèn hỏi rằng: Các người ghét tôi, đã đuổi tôi ra khỏi nơi mình, sao còn đi đến tôi mà chi?
3. Thái độ của kẻ ganh ghét Y-sác: Sáng Thế Ký 26: 28 Chúng đáp rằng: Chúng tôi đã thấy rõ ràng Đức Giê-hô-va phù hộ người, nên nói với nhau rằng: Phải có một lời thề giữa chúng tôi và người, để chúng ta kết giao ước với người. 29 Hãy thề rằng: Người chẳng bao giờ làm hại chúng tôi, như chúng tôi đã không động đến người, chỉ hậu đãi người và cho đi bình yên. Bây giờ người được Đức Giê-hô-va ban phước cho.
a. Chúng tôi thấy rõ Đức Chúa Trời phù hộ ngươi:
1 Phi-e-rơ 2: 12 phải ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, hầu cho họ là kẻ vẫn gièm chê anh em như người gian ác, đã thấy việc lành anh em, thì đến ngày Chúa thăm viếng, họ ngợi khen Đức Chúa Trời.
b. Muốn kết giao ước với Y-sác.
Châm Ngôn 16: 7 Khi tánh hạnh của người nào đẹp lòng Đức Giê-hô-va, thì Ngài cũng khiến các thù nghịch người ở hòa thuận với người.
c. Hãy thề chẳng bao giờ làm hại chúng tôi.
4. Cách Y-sác tiếp đãi kẻ ganh ghét mình: Sáng Thế Ký 26: 30 Y-sác bày một bữa tiệc, các người đồng ăn uống. 31 Qua ngày sau, chúng dậy sớm, lập lời thề với nhau: Rồi, Y-sác đưa các người đó đi về bình yên.
a. Cho ăn uống (câu 30)
b. Lập lời thề (câu 31a)
c. Để đi bình an (câu 31a): Đọc thêm 2 Các Vua 6: 22-23 .
Rô-ma 12:14 Hãy chúc phước cho kẻ bắt bớ anh em; hãy chúc phước, chớ nguyền rủa. 17 Chớ lấy ác trả ác cho ai; phải chăm tìm điều thiện trước mặt mọi người. 18 Nếu có thể được, thì hãy hết sức mình mà hòa thuận với mọi người. 19 Hỡi kẻ rất yêu dấu của tôi ơi, chính mình chớ trả thù ai, nhưng hãy nhường cho cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời; vì có chép lời Chúa phán rằng: Sự trả thù thuộc về ta, ta sẽ báo ứng. 20 Vậy nếu kẻ thù mình có đói, hãy cho ăn; có khát, hãy cho uống; vì làm như vậy, khác nào mình lấy những than lửa đỏ mà chất trên đầu người. 21 Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện thắng điều ác.
5. Giếng đã có nước: Sáng Thế Ký 26: 32 Cùng trong ngày đó, các đầy tớ của Y-sác đến đem tin cho người hay về giếng họ đã đào, rằng: Chúng tôi đã thấy có nước. (Phước hạnh đến).
6. Đặt tên giếng: Sáng Thế Ký 26: 33 Người bèn đặt tên cái giếng đó là Si-ba. Vì cớ đó nên tên thành ấy là Bê-e-Sê-ba cho đến ngày nay. (Vẫn còn tồn tại).
Sáng Thế Ký 21: 22 Về thuở đó, vua A-bi-mê-léc và Phi-côn, quan tổng binh mình, nói cùng Áp-ra-ham rằng: Đức Chúa Trời vùa giúp ngươi trong mọi việc ngươi làm. 23 Vậy bây giờ, hãy chỉ danh Đức Chúa Trời mà thề rằng: Ngươi sẽ chẳng gạt ta, con ta cùng dòng giống ta. Nhưng ngươi sẽ đãi ta và xứ ngươi đang trú ngụ, một lòng tử tế như ta đã đãi ngươi vậy. 24 Áp-ra-ham đáp rằng: Tôi xin thề. 25 Áp-ra-ham phàn nàn cùng vua A-bi-mê-léc về vụ một giếng kia bị đầy tớ người chiếm đoạt. 26 Vua A-bi-mê-léc bèn nói rằng: Ta chẳng hay ai đã làm nên nông nổi đó; chính ngươi chẳng cho ta hay trước; ngày nay ta mới rõ đây mà thôi. 27 Đoạn, Áp-ra-ham bắt chiên và bò, dâng cho vua A-bi-mê-léc; rồi hai người kết ước cùng nhau. 28 Áp-ra-ham lựa để riêng ra bảy con chiên tơ trong bầy; 29 thì vua A-bi-mê-léc hỏi rằng: Làm chi để bảy con chiên tơ đó riêng ra vậy? 30 Đáp rằng: Xin vua hãy nhận lấy bảy con chiên tơ nầy mà chính tay tôi dâng cho, đặng làm chứng rằng tôi đã đào cái giếng nầy. 31 Bởi cớ ấy, nên họ đặt tên chỗ nầy là Bê-e-Sê-ba; vì tại đó hai người đều đã thề nguyện cùng nhau. 32 Vậy, hai người kết ước cùng nhau tại Bê-e-Sê-ba. Đoạn vua A-bi-mê-léc cùng quan tổng binh Phi-côn đứng dậy, trở về xứ Phi-li-tin. 33 Áp-ra-ham trồng một cây me tại Bê-e-Sê-ba, và ở đó người cầu khẩn danh Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời Hằng-Hữu.
34 Áp-ra-ham trú ngụ lâu ngày tại xứ Phi-li-tin.
7. Về gia đình của Ê-sau: Sáng 26:34 Khi Ê-sau được bốn mươi tuổi, cưới Giu-đít, con gái của Bê-ê-ri, người Hê-tít; và Bách-mát, con gái của Ê-lôn, cũng người Hê-tít. 35 Hai dâu đó là một sự cay đắng lòng cho Y-sác và Rê-be-ca. (Nỗi khổ của cha mẹ)
“Cảm ơn Chúa về Y-sác người luôn đào giếng, dù bị tranh giành nhưng ông không phản công cũng không bỏ mục đích của mình, và cuối cùng ông kinh nghiệm được: Chúa để ông nơi rộng rãi và cho ông được thạnh vượng, xin Chúa cho con học những bài học này để ứng dụng vào trong cuộc sống mỗi ngày của con, và làm cho Danh Chúa được vinh hiển, Cảm ơn Chúa Jesus. Amen!”